Chơi Piano

39. Bàn Đạp Chặn Tiếng (Giữ Tiếng), Vật Lý Học Của Âm Thanh Piano

By 16/09/2020 2 Comments

Thực hành bất kỳ bài mới mà không có bàn đạp (chặn tiếng). HS và HT, cho đến khi bạn có thể chơi nó thoải mái HT ở tốc độ cuối cùng. Mọi giáo viên giỏi đều dùng phương pháp này. Bạn có thể cảm thấy khó khăn lúc đầu để tập luyện âm nhạc mà không dùng bàn đạp ở nơi được chỉ định.; tuy nhiên, đây là cách tốt nhất để luyện tập khả năng kiểm soát chính xác. Cảm giác “khó khăn” nảy sinh vì, không có bàn đạp, bạn cần phải chơi mọi chi tiết một cách chính xác. Học viên luyện tập với các bàn đạp từ đầu sẽ trở thành người chơi cẩu thả, phát triển nhiều những thói quen xấu, và sẽ không học được khái niệm kiểm soát chính xác. 

Hạng nghiệp dư thường lạm dụng bàn đạp chặn tiếng. Quy tắc hiển nhiên là, nếu bản nhạc không chỉ định việc sử dụng bàn đạp, thì đừng dùng nó. Việc dậm bàn đạp chặn tiếng làm cảm giác đánh đàn nhẹ nhàng hơn, vì bàn chân đang giữ các phím chặn âm khỏi dây đàn thay cho ngón tay. Một số tác phẩm có vẻ dễ dàng hơn để chơi với bàn đạp khi chơi rất chậm nhưng đây là một trong những cái bẫy nguy hiểm nhất người mới bắt đầu có thể rơi vào. Hầu hết người mới bắt đầu không nhận ra rằng ở những nơi không chỉ định bàn đạp, thường không thể chơi nhạc ở tốc độ nhanh với bàn đạp vì tất cả các nốt sẽ mắc vào nhau, và bạn sẽ mất kiểm soát với từng nốt riêng lẻ. Bàn đạp là một vật chống đỡ vì bạn không bao giờ phải nâng ngón tay một cách chính xác. Những vật chống đỡ như vậy làm hủy hoại kỹ thuật vì chúng cho phép bạn “chơi” (chậm) mà không cần kỹ thuật tương xứng. 

Một mục tiêu chính của việc luyện tập không dùng bàn đạp là tập giữ các ngón tay xuống để giữ chiếc búa vẫn còn đang dùng búa kiểm tra, xem [(11) Thế Bấm Phím Cơ Bản; Legato, Staccato], sau mỗi nốt. Khi không được dùng, búa cần được giữ yên để nó nằm trong tầm kiểm soát vào mọi lúc; nếu không bạn sẽ bị mất kiểm soát và có thể chơi thiếu nốt hoặc chơi chúng quá to ngay cả khi bạn chơi chúng một cách chính xác, vì chiếc búa đó đang lắc lư qua lại. Đừng đẩy xuống quá mạnh, chỉ cần vừa đủ “trọng lực” (lực cánh tay).

Bàn đạp không tồn tại trước thời đại của Mozart; ví dụ như không bản nhạc nào của J. S. Bach dùng bàn đạp. Mozart không chỉ định bất kỳ bàn đạp nào, tuy ngày nay một số bàn đạp được coi là không bắt buộc trong một số sách tác và nhiều nhà biên soạn đã thêm ký hiệu bàn đạp vào nhạc của ông. Bàn đạp được phát triển đầy đủ từ thời đại của Beethoven, tuy nó chưa hoàn toàn được công nhận là một dụng cụ âm nhạc nghiêm túc. Beethoven đã rất thành công trong việc dùng bàn đạp như một hiệu ứng đặc biệt; vì thế, ông có xu hướng dùng nó rất nhiều (phần đầu của Sonata Ánh trăng, phần thứ ba của Waldstein Sonata) hoặc hoàn toàn không dùng (Sonata #1 và Pathetique Sonata, phần thứ nhất và thứ hai của Waldstein). Chopin sử dụng bàn đạp rộng rãi để bơm một mức độ bổ sung của sự hợp lý vào âm nhạc của mình và hoàn toàn khai thác tất cả các cách khác nhau để đạp. Do đó, nhạc của Chopin (và nhiều nhà soạn nhạc sau này) không thể chơi được một cách chính xác mà không có sự rèn luyện bàn đạp tương xứng. 

Xem các tài liệu tham khảo cho tất cả các cách khác nhau để đạp, dùng chúng khi nào, và làm thế nào để luyện tập những phương pháp đó (Gieseking và Leimer, Fink, Sandor, Rubinstein, và “Hướng dẫn của Nghệ sĩ dương cầm để đạp” của Banowetz). Những tài liệu tham khảo đó cung cấp những bài tập hữu ích để luyện tập đạp đúng cách. Hãy tập nhuần nhuyễn những phương pháp đó trước khi dùng bàn đạp trong một bản nhạc thực sự. Ví dụ: dậm bàn đạp trước khi chơi một nốt nhạc nào đó kích thích nhiều dây rung nhất có thể. Để giữ chỉ một nốt rõ, dậm bàn đạp sau khi chơi nốt đó (nhưng trước khi bạn nâng ngón tay); bạn trì hoãn bàn đạp càng lâu, thì bạn nhận được càng ít rung cảm. Nói chung, bạn nên có thói quen dậm bàn đạp ngay sau khi chơi một nốt bất kỳ để tạo một âm điệu du dương hơn. Để tạo một hiệu ứng legato (luyến tiếng, êm ái) mà vẫn chơi rõ bản nhạc, nhanh chóng nâng và dậm bàn đạp vào mỗi chuyển đổi hợp âm. Việc biết khi nào cần nâng bàn đạp và khi cần dậm nó đều quan trọng như nhau. Rõ ràng, bàn đạp cần được “chơi” một cách cẩn thận như chơi một nốt trong các phím bấm cơ bản.

Vật lý tính của âm đàn dương cầm. Khác với bức hình tần số gốc và hòa âm đơn giản được dùng khi lên dây đàn dương cầm, những rung động dây thực sự bao gồm một chuỗi những sự kiện phụ thuộc vào thời gian phức tạp. Vì thế, tôi tóm tắt trong đây một số kiến thức chung dựa trên vật lý tính của âm đàn dương cầm. Đàn dương cầm lúc đầu tạo ra một âm tức thời và một âm lưu tồn được kéo dài (Weinreich, Askenfelt). Rung động của dây có thể bị phân cực, hoặc song song với thùng đàn, hoặc vuông góc với nó. Khi dây được gõ, sóng phân cực đứng được phát sinh và di chuyển xa khỏi búa theo hai hướng ngược nhau, tới thanh tăng âm, và tới ngựa đàn. Xem Biểu đồ Đại Dương Cầm hoặc Reblitz để biết tên các bộ phận đàn dương cầm. Những luồng sóng đó chuyển động nhanh đến nỗi chúng phản hồi từ cả hai đầu dây và đi qua búa vài trăm lần trước khi búa nẩy khỏi dây, trên thực tế chính những luồng sóng đó đã đẩy búa về. 

Sóng phân cực ngang được phát sinh từ những luồng sóng đứng vì thiết kế của đàn dương cầm không cân xứng. Những luồng sóng chuyển động đó suy yếu thành những sóng đứng yên gồm những hòa âm (bao gồm cả âm gốc) vì những sóng đứng đó là “điệu rung thường” (xem sách giáo khoa của một kỹ thuật viên), chúng chuyển năng lượng chậm rãi đến thùng đàn và vì thế nên chúng tồn tại lâu. Tuy nhiên, ngay từ đầu, khái niệm âm gốc và hòa âm vẫn đúng vì những hệ số Fourier (xem sách khoa toán hay vật lý học) của tần số gốc và hòa âm luôn lớn, ngay cả với sóng chuyển động, vì hai đầu dây được buộc cứng. Sự cứng chặt được cung cấp bởi trọng lượng của đàn, điều này giải thích vì sao đàn dương cầm tốt nặng đến như vậy. Những luồng sóng phân cực đứng chuyển năng lượng đến thùng đàn hiệu quả hơn những luồng sóng phân cực ngang và vì thế nên chúng tạo ra âm thanh to hơn và suy yếu nhanh hơn; chúng tạo ra âm tức thời. Những luồng sóng đứng phân cực ngang tạo ra âm lưu tồn, chúng duy trì âm cho đàn. Năng lượng được chuyển qua lại từ phân cực đứng đến ngang, tạo ra đặc tính hát của âm đàn dương cầm.

Nếu bàn đạp chặn tiếng được ấn xuống trước khi chơi một nốt, những luồng sóng chuyển động theo thời gian ban đầu sẽ kích thích tất cả dây, tạo nên tiếng rống nền nhẹ, nhưng hơi nghịch tai. Tức là, trong âm tức thời, những hệ số Fourier không hòa âm rất quan trọng; nghĩa là có một số nhiễu trắng. Nếu bạn đặt ngón tay lên bất kỳ dây nào, bạn có thể cảm thấy nó rung. Tuy nhiên, dây quãng tắm và dây hòa âm sẽ rung với biên độ cao hơn so với dây không hòa âm, đây là kết quả của hệ số Fourier to hơn cho hòa âm vì hai đầu dây được giữ yên. Nếu bàn đạp được ấn xuống sau khi nốt đã được đánh, sẽ có rung cảm ở dây quãng tám và dây hòa âm, nhưng tất cả những dây còn lại sẽ im lặng vì những luồng sóng chuyển động đã tiêu tan và những sóng đứng yên còn lại chỉ gồm các hòa âm. Việc này tạo ra nốt duy trì rõ ràng hơn. Bài học ở đây là, nói chúng, bàn đạp nên được ấn xuống ngay sau khi đánh một nốt, để tạo ra một hòa âm được duy trì hơn. Với Für Elise, chỉ sử dụng bàn đạp cho đệm âm vỡ lớn LH (nhịp 3 và tương tự), ô nhịp 83-96 và đoạn rải hợp âm RH (ô nhịp 100-104). Thực tế tất cả các phần gián đoạn khó đầu tiên cần được chơi mà không có bàn đạp. Tất nhiên, tất cả mọi thứ ban đầu nên được thực hiện mà không có bàn đạp cho đến khi bạn đã cơ bản hoàn thành bài nhạc. Bằng cách không dùng bàn đạp, kỹ thuật cải thiện nhanh nhất vì bạn có thể nghe chính xác những gì bạn chơi, đặc biệt là phần giữ và nâng của phím đánh cơ bản.